Thứ Hai, 11 tháng 4, 2016

Nội dung cơ bản của văn bản triết lý kinh doanh

Trong thực tế, triết lý kinh doanh của các doanh nghiệp thể hiện dưới nhiều hình thức như: một bài hát về công ty, một bản tuyên bố về qui tắc đạo đức kinh doanh, triết lý không tuyên bố hay không diễn đạt bằng văn bản, một văn bản triết lý rõ ràng… Tùy theo phạm vi quan tâm của tổ chức và khả năng của các nhà quản trị có liên quan, triết lý kinh doanh sẽ được hình thành theo nội dung phù hợp.



Qua tổng kết tư tưởng trong triết lý kinh doanh của nhiều tổ chức, các nhà nghiên cứu đã phân tích và nhận thấy rằng văn bản triếtlý kinh doanh có hai thành phần cơ bản như sau:

a) Mục tiêu lâu dài của tổ chức

Phần này thể hiện những mong muốn cần đạt được trong kỳ hạn dài của những người sáng lập doanh nhgiệp, nhà quản trị cấp cao cũng như các thành viên trong tổ chức. Mục tiêu lâu dài trong văn bản triết lý kinh doanh thường có vẻ gần gũi với nhiệm vụ của tổ chức hơn là những mục tiêu định lượng hoặc định tính thông thường trong các bản kế hoạch chiến lược hay kế hoạch tác nghiệp. Vì vậy, khi hình thành mục tiêu lâu dài trong triết lý kinh doanh, các nhà quản trị cần chú ý đặc điểm này. Tùy theo quy mô hoạt động và những khả năng tiềm tàng, mục tiêu trong triết lý kinh doanh cần thích ứng với vị thế của doanh nghiệp trên thị trường, điều này sẽ hạn chế tính phi thực tế trong triết lý kinh doanh.

Ví dụ: Mục tiêu của Công ty Dayton Hudson của Mỹ có những nội dung như:

+ Sản phẩm và dịch vụ của công ty luôn đáp ứng nhu cầu và mong muốn của khách hàng mục tiêu.

+ Góp phần vào sự phát triển nghề nghiệp của các thành viên trong tổ chức.

+ Đem lại lợi nhuận thỏa đáng cho các cổ đông.

+ Phục vụ cộng đồng nơi công ty hoạt động.

Hoặc mục tiêu của tập đoàn Sony:

+ Phục vụ toàn thế giới.

+ Cố gắng làm cho mọi người có thể cống hiến hết khả năng của mình.

+ Là người đi tiên phong, khai phá con đường mới.

Còn công ty Trung Cương của Đài Loan tuyên bố mục tiêu của mình:

+ Là nền tảng cho các ngành công nghiệp khác.

+ Mở rộng thị trường tiêu thụ trong và ngoài nước.

+ Phục vụ lợi ích tổng thể quốc gia.

Như vậy, những mục tiêu trong triết lý kinh doanh của các doanh nghiệp thể hiện rõ những mong muốn có tính triết lý mà tổ chức cần đạt được trong tương lai theo tầm cỡ hay vị thế của doanh nghiệp trên thị trường.

b) Phương thức hay nguyên tắc hành động

Để có thể đạt được các mục tiêu mong muốn, doanh nghiệp cần có những phương tiện khả thi, phù hợp với môi trường kinh doanh. Vì vậy, triết lý kinh doanh không chỉ đề cập đơn thuần các mục tiêu, mà còn đưa ra phương thức hay nguyên tắc hành động mang định hướng lâu dài, giúp tổ chức có cơ sở lựa chọn biện pháp hay những công cụ phù hợp để đạt được các mục tiêu. Trong văn bản triết lý kinh doanh, mục tiêu và phương thức hành động có mối quan tương hỗ với nhau.

Ví dụ: Theo quan điểm marketing – xã hội trong triết lý quản trị marketing hiện đại, mục tiêu của hoạt động marketing là “Đạt được lợi nhuận thông qua việc thỏa mãn tối đa nhu cầu, mong muốn và các lợi ích lâu dài dành cho khách hàng và xã hội”, và phương thức hành động là “Doanh nghiệp cần xác định nhu cầu, mong muốn và những lợi ích của thị trường mục tiêu, thực hiện việc phân phối các giá trị một cách có hiệu quả nhằm thỏa mãn tối đa các nhu cầu của khách hàng hơn hẳn các đối thủ cạnh tranh bằng cách duy trì và nâng cao các phúc lợi lâu dài của khách hàng và xã hội”.

Hoặc triết lý quản trị nhân sự đề ra mục tiêu là “Khai thác tối đa các khả năng sáng tạo tiềm tàng của người lao động nhằm giúp các tổ chức luôn có những cái mới để tạo lợi thế cạnh tranh trên thị trường” và phương thức hay nguyên tắc hành động tương ứng là “Thu hút lao động giỏi, đánh giá đúng năng lực, phân công đúng vị trí, hướng dẫn và hỗ trợ kịp thời, đãi ngộ thỏa đáng vật chất lẫn tinh thần… để người lao động yên tâm làm việc và gắn bó lâu dài với tổ chức”.

Những công ty hàng đầu thế giới, có quá trình hoạt động lâu đời luôn nhấn mạnh yếu tố con người, họ xem con người là tài sản, là nguồn lực quan trọng nhất trong quá trình phát triển; đồng thời, họ cũng nhấn mạnh tính hợp pháp và tính đạo lý của các loại phương tiện và các biện pháp được sử dụng khi tiến hành sản xuất kinh doanh. Vì vậy, một công ty dùng các thủ đoạn để bóc lột sức lao động của nhân viên, lừa dối khách hàng, hối lộ viên chức chính phủ để có được lợi thế trong cạnh tranh… có thể đạt lợi nhuận cao, thị phần lớn trên thị trường tại một thời điểm nào đó sẽ không được đánh giá tốt và khó thành công lâu dài. Ngoài ra, phương thức hành động trong triết lý kinh doanh còn thể hiện đặc trưng nổi bật của tổ chức này so với tổ chức khác, đây là cơ sở để định vị và tạo danh tiếng lâu dài cho công ty trên thị trường. Chẳng hạn, Chủ tịch tập đoàn Intel nói về triết lý quản trị của ông: “Công việc của tổ chức không phải là công việc của cá nhân mà là công việc tập thể. Hiệu suất của một nhà quản trị là hiệu suất của những đơn vị cấp dưới do nhà quản trị này giám sát. Muốn đạt được hiệu quả cao trong kinh doanh, nhà quản trị phải tăng cường đào tạo và thúc đẩy nhân viên của mình hướng vào mục tiêu chung của tổ chức… Người quản lý có vai trò giống như một huấn luyện viên, họ không đạt được vinh quang từ hoạt động của bản thân mà ở kết quả hoạt động của toàn đội do anh ta phụ trách. Vì vậy, cần biến nơi làm việc thành một đấu trường để có thể biến cấp dưới thành những vận động viên, góp phần thực hiện công việc bằng tất cả các năng lực tiềm tàng của mình, đó là chìa khóa để biến đội của chúng ta thành những người luôn chiến thắng…”.

Những tư tưởng này đã phát triển thành văn bản triết lý kinh doanh của Intel “Đối với Intel, sắp xếp chức trách của từng vị trí theo mục tiêu sự nghiệp chỉ là mục tiêu khái quát, chúng tôi còn tìm cách tạo ra một môi trường khiến cho nhân viên vừa yêu mến công việc, vừa đạt được các mục tiêu cá nhân. Chúng tôi cố gắng cung cấp các cơ hội để phát triển nhân viên nhanh chóng thông qua quá trình đào tạo. Chúng tôi tin vào nguyên tắc cho rằng lao động chăm chỉ và năng suất là hai điều mà người ta phải lấy làm tự hào, người ta phải tìm kiếm và khen ngợi một tổ chức có kỷ luật chặt chẽ. Trách nhiệm của nhân viên được xác định rõ ràng, việc tuyển dụng nhân lực phải nhằm mục đích lâu dài, nếu có những bất trắc về công việc thì tiến hành sắp xếp lại hơn là sa thải. Chúng tôi muốn tất cả nhân viên của công ty đều cảm thấy có liên quan và có mối quan hệ chặt chẽ với Intel. Chúng tôi muốn nhân viên thật sự quan tâm đến công ty của mình. Vì vậy, chúng tôi nhấn mạnh đến chất lượng giao tiếp và tìm mọi cách để tổ chức công ty thành những nhóm càng nhỏ càng tốt nhằm phát triển thống nhất và đầy tính thân thiện. Chúng tôi mong muốn tất cả nhân viên của công ty ứng xử có đạo đức…”

Tùy theo đặc điểm tổ chức, nội dung triết lý kinh doanh có thể được trình bày khác nhau. Trong đó, phần phương thức hành động thường thể hiện hai nội dung cơ bản là những triết lý về đạo đức kinh doanh và triết lý về biện pháp quản trị. Đây là cơ sở quan trọng giúp các nhà quản trị chiến lược xác định nhiệm vụ của tổ chức, các chiến lược, các chính sách kinh doanh…

Triết lý về đạo đức kinh doanh:

Đây là hệ thống những giá trị mà doanh nghiệp sử dụng vừa để định hướng, vừa làm thước đo hành vi ứng xử của các thành viên trong các mối quan hệ đối nội và đối ngoại như: Quan hệ giữa con người với con người, giữa con người với thiên nhiên, giữa con người với xã hội và trong bản thân các hoạt động nghề nghiệp chuyên môn cụ thể của mỗi cá nhân. Tư tưởng trong triết lý về đạo đức kinh doanh chứa đựng cả tư tưởng nguyên tắc đạo đức lẫn các trách nhiệm xã hội mà doanh nghiệp hay tổ chức cần thực hiện trong tiến trình quản trị chiến lược.

Trong thực tế, triết lý về đạo đức kinh doanh vừa liên quan đến đạo lý, vừa liên quan đến pháp lý mà các nhà quản trị muốn vạch ra để định hướng triển khai văn bản qui tắc đạo đức kinh doanh thông qua các điều khoản cụ thể trong tiến trình tổ chức thực hiện chiến lược. Những tiêu chuẩn về đạo lý và pháp lý ở từng quốc gia trên thế giới không hoàn toàn giống nhau. Vì vậy, khi hình thành tư tưởng đạo đức và trách nhiệm xã hội trong triết lý về đạo đức kinh doanh, các nhà quản trị cần nghiên cứu các yếu tố thuộc môi trường pháp lý và văn hóa ở mỗi khu vực thị trường một cách cẩn thận nhằm quyết định các điều khoản liên quan thích nghi với môi trường kinh doanh hay môi trường hoạt động.

Các tập đoàn đa quốc gia của các nước phát triển thường triển khai triết lý về đạo đức kinh doanh thành văn bản “Qui tắc đạo đức kinh doanh” cụ thể khi tiến hành tổ chức thực hiện các chiến lược và phổ biến rộng rãi cho toàn thể các thành viên của tổ chức ở các chi nhánh theo khu vực địa lý để mọi người cùng hiểu và thực hiện. Nội dung cơ bản của văn bản này là giống nhau, nhất là những tiêu chuẩn đạo đức được thừa nhận rộng rãi khắp mọi nơi như mối quan hệ trong ứng xử giữa con người với con người, những phần khác có thể điều chỉnh để thích nghi với văn hóa địa phương.

Triết lý về biện pháp quản trị

Triết lý về biện pháp quản trị là những tư tưởng chủ đạo về các công cụ quản trị cần thiết, phù hợp với các qui chuẩn đạo đức, có thể giúp tổ chức thành công và đạt được các mục tiêu lâu dài. Những tư tưởng này liên quan đến các nguồn lực: Nhân lực, các nguồn lực vật chất (vốn bằng tiền, máy móc, thiết bị…), các nguồn lực vô hình (chiến lược, chính sách, cơ cấu tổ chức, văn hóa tổ chức, danh tiếng…) và các nguyên tắc phối hợp và sử dụng các nguồn lực có hiệu quả trong quá trình thực hiện.

Trong thực tế, triết lý về biện pháp quản trị đã được nhiều nhà quản trị hoặc những nhà sáng lập công ty hàng đầu thế giới đề cập trong các văn bản triết lý kinh doanh của họ. Trong đó, hai nội dung cơ bản của phương thức hành động trong triết lý kinh doanh thường được trình bày theo thứ tự hoặc đan xen với nhau. Tùy theo đặc trưng văn hóa tổ chức, các nhà quản trị các tổ chức sẽ nhấn mạnh phương thức hành động đối nội hay đối ngoại hoặc kết hợp hài hòa cả trong lẫn ngoài.

Ví dụ: Công ty HP “Nhân lực là vấn đề trọng yếu, doanh nghiệp chỉ thành đạt nếu biết dựa trên sự thành công của các cá nhân. Vì vậy phải coi trọng nhân viên và tạo điều kiện cho họ lao động hết mình và được hưởng thụ xứng đáng từ thành quả lao động của mình…”

Đối với công ty Trung Cương của Đài Loan, triết lý kinh doanh gồm có 4 phần:

+ Phần 1: Mục tiêu kinh doanh

+ Phần 2: Thái độ làm việc

+ Phần 3: Nguyên tắc đối nhân xử thế

a)    Lấy nhân ái mà đối đãi với người

b)    Lấy kinh nghiệm mà xử sự với người.

+ Phần 4: 12 nguyên tắc quản lý cơ bản.

a)    Tập tục phải tốt đẹp

b)    Cơ cấu tổ chức phải phù hợp môi trường

c)    Dùng người phải tinh giản

d)    Biết người rồi phải khéo dùng người

e)    Tăng cường đào tạo

f)     Kỷ luật nghiêm minh

g)    Mạnh dạn giao quyền

h)    Nâng cao hiệu suất hoạt động

i)      Chi tiêu tiết kiệm

j)      Quy tắc, điều lệ phải thay đổi kịp thời

k)    Luôn tìm cái mới

l)      Phục vụ khách hàng phải nhiệt tình

Hoặc công ty Disney có “Mười nguyên tắc vàng” như sau:

a)    Phải xem trọng chất lượng nếu muốn sống còn

b)    Phải luôn lịch thiệp, ân cần để gây thiện cảm tối đa

c)    Luôn nở nụ cười nếu không muốn phá sản

d)    Chỉ có tập thể mới đem lại thành công

e)    Không bao giờ biết từ chối và lắc đầu với khách hàng

f)     Không bao giờ nói “Không”, mà phải nói “Tôi rất hân hạnh được làm việc này”

g)    Bề ngoài phải tươm tất, vệ sinh tối đa

h)    Luôn có mặt khi khách hàng cần và hiểu rõ nhiệm vụ của mình.

i)      Tuyển những nhân viên làm việc có hiệu quả nhất, những người thông thạo nghề nghiệp nhất.

j)      Mục tiêu cao cả: Chứng tỏ mình là hình ảnh đẹp nhất và luôn cho khách hàng biết rằng họ đang được phục vụ bởi những người làm việc hết mình.

Như vậy, văn bản triết lý kinh doanh của các doanh nghiệp có thể biểu hiện dưới nhiều hình thức, nội dung các ý tưởng được diễn đạt cô động hay giải thích rõ ràng tùy theo quan điểm hoặc thói quen của nhà quản trị các công ty… Dù hình thức có khác nhau, nhưng chúng đều thể hiện các quy tắc cụ thể và được các công ty sử dụng như một phương tiện để hướng dẫn suy nghĩ và hành vi ứng xử của các thành viên trong tổ chức một cách thống nhất

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét